ĐẮK LẮK: VỤ LÚA HÈ THU – CẨN TRỌNG MỘT SỐ SÂU BỆNH HẠI CHÍNH
Cập nhật lúc: 19/07/2020
Cập nhật lúc: 19/07/2020
Hiện nay, trà lúa chính vụ Hè thu đang thời kỳ mạ và đẻ nhánh. Lướt nhanh một vòng qua các cánh đồng lúa tập trung (Hòa Khánh, Khánh Xuân, Ea Kao, Hòa Xuân…), lúa đang sinh trưởng tốt ở hầu hết các cánh đồng, tuy nhiên cần cẩn trọng với các đối tượng sâu, bệnh hại có thể phát sinh gây hại đến phát triển lúa, làm ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế.
Hàng năm, Đăk Lăk có hai vụ lúa chính là vụ Đông xuân và vụ Mùa (vụ Mùa gồm Hè thu và Thu đông, riêng Thu đông diện tích lúa không đáng kể), trong đó, diện tích lúa sản xuất vụ Hè thu gần 58-59 nghìn ha, thường tăng gấp rưỡi diện tích vụ Đông xuân (35 - 37 nghìn ha), vụ Hè thu rơi vào mùa mưa (tháng 6 – tháng 10) nên chủ động về nguồn nước. Sản lượng lúa thu hoạch vụ Hè thu thường chiếm từ 60 - 70% tổng sản lượng lương thực hàng năm, góp phần lớn trong việc hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch về sản lượng lương thực đề ra cả năm của tỉnh.
Cẩn trọng với các loại sâu, bệnh hại lúa vụ Hè thu
Vụ Hè thu năm nay, mặc dù đầu vụ có thuận lợi về nguồn nước, tuy nhiên do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, thời tiết thường diễn biến phức tạp, mưa nắng đan xen nhau, tạo môi trường “tiểu khí hậu” phù hợp cho sinh vật gây hại phát sinh lây lan, làm giảm năng suất và chất lượng sản phẩm lúa gạo, ảnh hưởng tổng sản lượng lương thực cả năm đã đề ra.
Với cây lúa, từng giai đoạn sinh trưởng có các đối tượng sâu, bệnh hại khác nhau phát sinh gây hại. Ở thời kỳ mạ và đẻ nhánh thường xuất hiện Bọ trĩ, sâu Cuốn lá nhỏ trên lúa. Ở thời kỳ này lá lúa non, mềm mỏng nên là thức ăn tuyệt vời cho Bọ trĩ cứa hút dinh dưỡng và Cuốn lá nhỏ ăn phần nhu mô của lá, hạn chế quá trình quang hợp để tích lũy dinh dưỡng của cây lúa. Đến thời kỳ lúa đẻ nhánh, chuẩn bị làm đòng (tượng khối sơ khởi), phiến lá lúa phát triển cứng hơn, mật độ Bọ trĩ giảm dần, tuy nhiên, trên ruộng lúa lúc này lại xuất hiện thêm sâu Cuốn lá lớn, sâu Keo, sâu Năn, Rầy nâu, sâu Đục thân….Trong đó Sâu năn (muỗi hành) là đối tượng gây hại khó phát hiện nhất trên ruộng lúa vụ Hè thu, nếu không thăm đồng thường xuyên và vạch từng bụi lúa để truy tìm triệu chứng “cọng hành” hiện diện ở giữa bụi lúa. Bỡi sâu Năn có bốn giai đoạn (pha) phát triển hình thành vòng đời (trưởng thành, trứng, ấu trùng và nhộng) đều có hình thái rất nhỏ, lẫn vào trong những bụi lúa. Trưởng thành là thành trùng nhỏ (giống con muỗi), dài khoảng 3-5 mm, bụng màu hồng nhạt đẻ trứng rải rác từng quả trên cây lúa, rất nhỏ, màu trắng, trước khi nở có màu vàng. Trứng nở ấu trùng (sâu non) giống như con dòi, mình dẹt, màu trắng sữa, dài 4-5 mm, là đối tượng đục vào đỉnh sinh trưởng của cây lúa gây vết sẹo, từ đó hình thành “cọng hành” thẳng đứng. Khi cọng hành lớn dần thì ấu trùng bên trong cũng hóa thành nhộng. Đến khi nhộng vũ hóa thành con trưởng thành thì cắn đầu trên của cọng hành thoát ra ngoài tiếp tục đẻ trứng. Nếu không phát hiện kịp thời, mật độ sâu năn gia tăng, đồng nghĩa với “dịch sâu năn” xảy ra và năng suất lúa sẽ giảm trầm trọng.
Giai đoạn ruộng lúa làm đòng đến trỗ ngoài sâu Năn, đối tượng sâu Đục thân cũng đáng lo ngại. Thời kỳ này, ruộng lúa đã giao tán, ẩm độ và nhiệt độ ở chân ruộng thích hợp cho sâu Đục thân ẩn náu và phát triển gây hại. Bỡi lúc này các đốt cây lúa bắt đầu dài ra nên mềm, ngọt, thơm ngon đối với Sâu đục thân. Sâu đục thân hai chấm có 4 pha (bướm, trứng, sâu non, nhộng), nhưng trứng thường đẻ thành ổ mặt sau lá lúa, mỗi ổ có đến trên dưới hai trăm trứng. Sau khi trứng nở, sâu non đục qua lá bao đòng, chui vào giữa rồi đục điểm sinh trưởng, cắn đứt các mạch dẫn dinh dưỡng, làm cho bông lép trắng. Vì số lượng sâu non trên mỗi ổ trứng rất nhiều, nên khi lúa bị hại thì bị cả chòm lúa, rồi lan rộng rất nhanh thành từng khoảnh, nếu không kịp phòng trừ thì cả ruộng, từng khu vực lúa bị hại. Những diện tích lúa bị hại bỡi sâu đục thân, bông lúa sẽ lép, sản lượng thu hoạch không đáng kể.
Song song với sâu hại thì bệnh hại trên lúa cũng là những đối tượng dịch hại đáng lo ngại. Các bệnh thường gặp trên lúa vụ Hè thu là bệnh đạo ôn; bệnh đốm sọc vi khuẩn; bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá; bệnh khô vằn…. Trong đó đáng lo ngại nhất là bệnh đạo ôn lá, đốt thân, cổ bông và hạt. Bệnh thường phát sinh và phát triển lây lan mạnh ở thời kỳ lúa đẻ nhánh rộ đến làm đòng, trỗ. Bệnh đạo ôn trên lá có triệu chứng vết bệnh ban đầu là những chấm nhỏ màu xanh lục hoặc mờ vết dầu, sau chuyển màu xám nhạt, hoặc nâu vàng. Vết bệnh lớn dần có dạng hình thoi, hay bầu dục, rìa màu nâu, ở giữa màu xám tro, khi nặng vết bệnh kéo dài theo phiến lá. Nhiều vết bệnh kế tiếp liền nhau làm cho lá bị khô (gọi là bệnh cháy lá). Trên đốt thân, nếu bị đạo ôn, làm cho đốt thân tóp lại, các đốt gần gốc bị bệnh mục ra làm cây bị đổ. Trên cổ bông bị đạo ôn, vết bệnh có màu xám xanh đến nâu xám, cổ bông teo thắt lại làm cho hạt bị lửng, lép. Bệnh đạo ôn xuất hiện muộn khi hạt lúa vào chắc, sẽ làm cho bông lúa bị gẫy, điểm bị gẫy có màu nâu và thối mục. Nếu bệnh nặng bông lúa khô bạc trắng. Bệnh xuất hiện trên hạt, vết bệnh có màu đốm nâu, tâm xám trắng. Bệnh đạo ôn do nấm Pyricularin gây ra, loại nấm này tồn tại dưới dạng bào tử trên tàn dư cây trồng từ vụ trước, trên lúa chét, cỏ dại…, Bào tử nấm thường phát sinh vào ban đêm, xâm nhập vào cây gây bệnh trong điều kiện thời tiết thích hợp, sau những đợt mưa kéo dài rồi đan xen những ngày nắng gắt ở vụ Hè thu, theo đó kìm hãm sự sinh trưởng của cây lúa. Khi dịch bệnh đạo ôn xảy ra trên diện rộng thì sẽ thiệt hại lớn đến năng xuất và sản lượng lúa, đặc biệt ảnh hưởng đến kinh tế đối với những địa phương có diện tích lúa tập trung lớn.
Bệnh Đạo ôn gây cháy lá cục bộ trên lúa
Một số biện pháp cơ bản để quản lý dịch bệnh
Để quản lý tốt nhất dịch hại trên lúa vụ Hè thu, nông dân phải thường xuyên tham gia các lớp tập huấn về qui trình sản xuất lúa của các cơ quan chuyên môn tại địa phương. Cần tổng hợp các biện pháp tác động trong cả quá trình sản xuất lúa từ khi làm đất đến thu hoạch mới đạt hiệu quả kinh tế cao.
Đầu tiên, phải nghĩ ngay đến khâu sử dụng các giống lúa cao sản kháng sâu, bệnh hại, phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng sản xuất. Giống lúa phải được xác nhận của các ngành chuyên môn và xử lý giống trước khi gieo để hạn chế tối đa sự xâm nhập của các loại dịch hại. Theo đó, kỹ thuật canh tác cũng hết sức quan trọng, từ khâu làm đất cày vùi các tàn dư (ký chủ của sinh vật gây hại) của vụ đông xuân vừa qua, trước khi gieo sạ vụ Hè thu từ 20-30 ngày. Căn cứ vào thời vụ gieo trồng và thời gian sinh trưởng của từng giống lúa, để xuống giống đúng thời hạn, né tránh các đợt dịch hại có thể phát sinh vào các giai đoạn xung yếu của cây lúa (như giai đoạn làm đòng, thụ phấn, trỗ…), đảm bảo cho lúa trỗ an toàn trong nhiệt độ ôn hòa, trời quang mây, có nắng và gió nhẹ, không mưa vào thời gian lúa phơi màu. Có thể xử lí đất bằng vôi bột để làm giảm độ chua, tiêu diệt mầm mống sâu bệnh hại trên những chân ruộng bị chua trước khi gieo sạ. Trước khi gieo sạ, ruộng phải được làm sạch cỏ, phay đất nhuyễn bùn, san phẳng mặt ruộng và tháo nước để vừa đủ ẩm cho cây lúa nảy mầm, sinh trưởng tốt. Bón đủ và cân đối các chất dinh dưỡng (đạm, lân, kali các trung, vi lượng) để cây lúa hấp thu tốt các chất cần thiết theo nhu cầu sinh lý của từng giai đoạn. Điều tiết nước hợp lý, kết hợp với làm cỏ, sục bùn cho rễ lúa hô hấp mạnh, hấp thu dinh dưỡng nuôi cây. Đặc biệt, quan tâm đến biện pháp sinh học cụ thể, bảo vệ lực lượng thiên địch có sẵn trên ruộng bằng cách không phun thuốc hóa học từ 0-40 ngày sau sạ (hoặc sử dụng thuốc sinh học nếu cần thiết) để các loại thiên địch phát triển mạnh (bọ rùa đỏ, nhện Lycosa, bọ xít gai ăn thịt, các loại ong ký sinh, nấm ký sinh….) sẽ khống chế sâu bệnh hại trên ruộng. Phải thăm đồng thường xuyên để phát hiện kịp thời sự phát sinh của các đối tượng sâu bệnh hại để phòng trừ đúng lúc. Nếu sự biến đổi khí hậu tạo điều kiện cho một loại sâu, bệnh hại phát sinh và gây hại thành dịch (vượt ngưỡng kinh tế) buộc phải phòng trừ bằng thuốc hóa học thì phải phải nghĩ ngay đến việc sử dụng thuốc theo “bốn đúng”, đúng thuốc, đúng cách, đúng lúc, đúng liều lượng nồng độ.
Cẩm lai - Trạm KN TP.BMT